THUYÊN TẮC ỐI
Thuyên tắc ối (Amniotic fluid embolism: AFE) là một cấp
cứu sản khoa hiếm gặp, nhưng nguy hiểm đến tính mạng khi nước ối xâm nhập vào
tuần hoàn người mẹ.
Steiner
và Luschbaugh, hai nhà bệnh lý học từ đại học Chicago mô tả AFE lần đầu tiên vào năm 1941, sau khi họ tìm thấy mảnh vụn của thai nhi trong tuần hoàn phổi của những phụ nữ chết trong khi chuyển dạ. Dữ
liệu từ Cơ quan đăng ký AFE quốc gia cho thấy quá trình này giống với shock phản vệ hơn là tắc mạch, và do
đó thuật ngữ hội chứng phản vệ
khi mang thai được đề xuất vì mô thai hoặc các thành phần nước ối không phải lúc nào cũng
tìm thấy ở những phụ nữ có dấu hiệu và triệu chứng quy
cho AFE.
Hiếm. Hầu hết các nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ
mắc từ 1 đến 12 trường hợp trên 100.000 ca sinh. Tuy nhiên, những dữ liệu này
có thể đánh giá quá cao tỷ lệ thực vì nhiều nghiên cứu đã đưa ra chẩn đoán AFE
bằng cách sử dụng kết quả không đặc hiệu.
Sinh lý bệnh
Mặc
dù trải qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, cơ chế bệnh sinh của AFE hiện vẫn không
hiểu biết đầy đủ. Nhiều lý thuyết được đưa ra liên quan đến các biểu hiện lâm
sàng của AFE, và mối quan hệ của chúng với việc nước ối đi vào hệ thống tuần
hoàn của mẹ. Giả thuyết đầu tiên được đề xuất mô tả các mảnh vỡ nước ối đi qua
các tĩnh mạch cổ tử cung vào tuần hoàn của mẹ, dẫn đến tắc nghẽn. Lý thuyết này
đã không được ủng hộ vì không có bằng chứng vật lý nào về sự tắc nghẽn được ghi
nhận trên các nghiên cứu X quang, khám nghiệm tử thi hoặc thử nghiệm trên các
mô hình động vật.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra
rằng việc nước ối và tế bào thai nhi vào tuần hoàn của mẹ là rất phổ biến trong
quá trình mang thai và sinh đẻ. Một
nghiên cứu được thực hiện để điều tra xem liệu các tế bào vảy của thai nhi từ
nước ối có thể làm tắc nghẽn mạch máu phổi của mẹ gây ra trụy tim mạch,
cho thấy số lượng tế bào trung bình trong nước ối là 695 +/- 600 tế bào vảy
trên mỗi ml dịch. Phổi
trưởng thành chứa 480 triệu phế nang với 280 tỷ mao mạch phổi. Họ kết luận rằng
ngay cả khi toàn bộ thể tích nước ối tràn vào
tuần hoàn của mẹ, các tế bào vảy có sẵn cũng chỉ
làm tắc 1
trong một triệu
đoạn mao mạch phổi, và
không thể phát hiện được trên lâm sàng
Do đó, hầu hết các lý thuyết hiện nay tập
trung vào các yếu tố miễn dịch và thể dịch, và cách chúng tác động lên cơ thể. Nghiên
cứu hiện tại tập trung vào tác dụng của dịch ối trên cơ thể sau khi đã đi vào tuần
hoàn cơ thể mẹ . Giả thuyết cho rằng nước ối làm giải phóng các chất trung gian
nội sinh khác nhau, dẫn đến những thay đổi sinh lý được thấy trong AFE. Các chất
trung gian được đưa ra bao gồm histamine, bradykinin, endothelin, leukotrienes, và chất
chuyển hóa arachidonic acid.
Đáp ứng
huyết động đối với AFE là bản chất hai pha. Nó bao gồm co mạch, dẫn đến tăng
huyết áp phổi nặng, và co mạch mạnh ở mạch máu phổi thứ phát do chính nước ối,
có thể dẫn đến tình trạng bất xứng thông khí-tưới máu và kết quả là
thiếu oxy. Trên siêu âm tim, giai đoạn ban đầu của AFE
bao gồm suy thất thất phải biểu hiện tâm thất phải bị giãn nghiêm trọng, giảm
co bóp với sự lệch vách liên thất vào tâm thất trái. Sau giai đoạn đầu của suy thất phải, có thể kéo dài vài
phút đến vài giờ, suy thất trái cùng shock tim, phù phổi trở nên nổi bật. Điều này xảy ra do giảm tiền tải cũng như hạ
huyết áp hệ thống. Những thay đổi này có thể làm giảm tưới máu động mạch vành
và có thể dẫn đến tổn thương cơ tim, sốc tim và làm sốc phân bố
xấu đi
DIC(Đông máu nội mạch lan tỏa) có mặt ở 83% bệnh nhân bị AFE; tuy nhiên, biểu hiện lúc
đầu có thể thay đổi . Nó có thể xuất hiện trong vòng mười phút đầu sau khi trụy
tim mạch, hoặc có thể đến chín giờ sau biểu hiện lâm sàng ban đầu. Sinh lý bệnh
DIC trong AFE chưa được hiểu rõ, nhưng có khả năng do
tiêu thụ, thay vì bản chất là tiêu fibrin. Trong AFE, giả thuyết hiện tại đưa ra là
yếu tố mô có trong nước ối, kích hoạt đường ngoại sinh gắn
với yếu tố VII, kích hoạt đông máu xảy ra bằng cách kích hoạt yếu tố X, dẫn đến
rối loạn đông máu là
do tiêu thụ. Cuối cùng, người ta nhận thấy sự đông máu
này dẫn đến co mạch các
mạch
máu nhỏ và thuyên tắc do thrombin được sản xuất tiết vào endothelin,
dẫn đến những thay đổi gặp trong DIC
Yếu tố nguy cơ
Thuyên tắc ối (AFE) được xem là biến cố
không thể biết trước, không thể dự phòng và nguyên nhân không rõ. Các yếu tố
nguy cơ để phát triển thuyên tắc ối bao gồm sanh nhiều lần, mẹ lớn tuổi, thai
nhi con trai và chấn thương. Trong một đánh giá hồi cứu khoảng thời gian 12 năm
bao gồm 180 trường hợp thuyên tắc ối, trong đó 24 tử vong, gây chuyển dạ bằng
thuốc làm tăng nguy cơ AFE. Trong cùng một nghiên cứu, AFE có liên quan rõ ràng
đến sanh nhiều lần, mổ lấy thai hoặc sanh giúp bằng dụng cụ, nhau bong non,
nhau tiền đạo, rách cổ tử cung hoặc vỡ tử cung.
Ngoài ra, nghiên cứu trong số 182 bệnh
nhân mắc AFE, đã tìm thấy mối liên quan chặt chẽ giữa AFE và bệnh thận, nhau tiền
đạo, đa ối, nhau bong non, sản giật và các thủ thuật như chọc ối, sinh mổ cổ điển,
nông và nạo tử cung. Nguy cơ AFE cũng được tìm thấy tăng theo tuổi mẹ, và xảy
ra cao nhất sau tuổi 39
Biểu hiện lâm sàng
Tiêu chuẩn chẩn đoán thống nhất cho thuyên
tắc nước ối được đề xuất sử dụng khi báo cáo sự cố. Tất cả những biểu hiện sau
đây phải có mặt để chẩn đoán AFE
1. Đột ngột ngừng tim hoặc hạ huyết áp (HA
tâm thu <90mm HG) và suy hô hấp(khó thở, bão hòa oxy <90%)
2. Đông máu nội mạch lan tỏa xuất hiện sau
những dấu hiệu và các triệu chứng đầu tiên, nhưng trước khi mất máu đáng kể
3. Triệu chứng lâm sàng xuất hiện trong
chuyển dạ hoặc trong vòng 30 phút sổ nhau
4. Không sốt trong chuyển dạ
Chú ý: Các tiêu chí trên chỉ dành cho nghiên cứu và trong thực
hành lâm sàng, bệnh nhân có thể có AFE không điển hình nên tất cả các yếu tố cần thiết trên
sẽ không đủ.
Khuyến cáo không nên đặt catheter động mạch phổi thường quy để lấy mẫu xác định các mảnh vụn
trong
nước ối (tế bào vảy, tế bào trophoblastic, mucin và lông
tơ) trong tuần hoàn phổi, vì các mảnh vỡ này cũng
có trong tuần hoàn sản
phụ mà không có AFE, và do đó không giúp chẩn đoán .
Tương tự vậy, sinh thiết phổi thông thường không được chỉ định. Mặc dù chẩn đoán mô học đã được báo cáo phát hiện các thành phần nước ối trong tuần hoàn phổi, nhưng những phụ nữ chết vì các triệu chứng AFES cổ diển cho thấy không có bất kỳ bằng chứng mô học nào khi khám nghiệm tử thi.
Các xét nghiệm chẩn đoán để nghiên cứu bao gồm:
● Mức kháng nguyên kẽm coproporphyrin-1 và sialyl Tn đã được chứng minh là tăng ở một số bệnh nhân bị AFES có biểu hiện suy sụp tim phổi.
● Đo TKH-2 (một kháng nguyên của thai nhi cũng có thể được quan sát trong các mẫu phổi của mẹ), yếu tố tăng trưởng giống như insulin gắn với protein-1 hoặc kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy đã được phát hiện ở một số bệnh nhân mắc AFES nhưng ý nghĩa chẩn đoán không chắc chắn.
Tương tự vậy, sinh thiết phổi thông thường không được chỉ định. Mặc dù chẩn đoán mô học đã được báo cáo phát hiện các thành phần nước ối trong tuần hoàn phổi, nhưng những phụ nữ chết vì các triệu chứng AFES cổ diển cho thấy không có bất kỳ bằng chứng mô học nào khi khám nghiệm tử thi.
Các xét nghiệm chẩn đoán để nghiên cứu bao gồm:
● Mức kháng nguyên kẽm coproporphyrin-1 và sialyl Tn đã được chứng minh là tăng ở một số bệnh nhân bị AFES có biểu hiện suy sụp tim phổi.
● Đo TKH-2 (một kháng nguyên của thai nhi cũng có thể được quan sát trong các mẫu phổi của mẹ), yếu tố tăng trưởng giống như insulin gắn với protein-1 hoặc kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy đã được phát hiện ở một số bệnh nhân mắc AFES nhưng ý nghĩa chẩn đoán không chắc chắn.
Ở thời
điểm hiện tại, thuyên tắc ối vẫn là chẩn đoán lâm sàng. Không có xét nghiệm nào
có thể xác định hoặc loại trừ chẩn đoán thuyên tắc nước ối.
Xử trí
Nhận
biết sớm AFE và
chăm sóc tích cực về sản khoa ngay lập tức đã chứng minh đóng vai trò quyết định
trong tiên lượng và sống còn của mẹ. Để sống sót, bệnh nhân AFE cần được hỗ trợ
từ nhiều chuyên khoa, với trọng tâm là duy trì oxy, hỗ trợ tuần hoàn và điều trị
rối loạn đông máu.
Điều
trị shock và ngừng tim
Các
chiến lược ban đầu nên tập trung vào hồi sinh tim phổi cơ bản và nâng cao để điều
trị sốc và ngừng tim. Sản phụ chưa sinh ấn tim tương tự người không
mang thai và đẩy tử cung sang trái để ngăn ngừa chèn ép động mạch chủ bởi
tử cung.
Việc
sử dụng thuốc vận mạch, thuốc chống loạn nhịp, và liều khử rung tim không khác
với liều dùng cho người không mang thai.
Sau
hồi sức thành công, điều trị sau ngừng tim rất quan trọng. Bệnh nhân thường có huyết
động không ổn định, nên cần truyền dịch, thuốc vận mạch và thuốc tăng co bóp
tim. Mục tiêu là duy trì huyết áp động mạch trung bình 65 mm Hg. Sốt có thể làm
xấu tổn thương tái tưới máu thiếu máu cục bộ đến não và nên được điều trị tích
cực. Tình trạng tăng oxy cũng làm xấu đi chấn thương tái thiếu máu cục bộ và cho
oxy 100% cũng nên tránh ở bệnh nhân sống sót sau ngừng tim. Glucose máu nên được
duy trì giữa 140 mg / dL và 180 mg / dL bằng cách sử dụng insulin truyền qua đường
tĩnh mạch.
Oxy
hóa máu qua màng ngoài cơ thể(ECMO) đã được dùng trong thuyên tắc ối kháng trị
với hồi sức quy ước. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc kháng đông máu trong oxy
hóa màng ngoại cơ thể có thể làm nặng thêm cho bệnh nhân rối loạn đông máu nặng
đang chảy máu. Vì những lo ngại này, cũng như không đủ bằng chứng lợi ích, oxy
hóa màng ngoài cơ thể còn tranh cãi và thông thường không dùng trong thuyên tắc
ối.
Giai
đoạn đầu của thuyên tắc ối chủ yếu là suy thất phải. Siêu âm tim có thể cung cấp
thông tin có giá trị. Siêu âm tim thường sẽ cho thấy sự giãn nở nghiêm trọng và
giảm co bóp tâm thất phải với sự lệch vách liên thất vào tâm thất trái. Cần
tránh tình trạng thiếu oxy, nhiễm toan và tăng cacbonic máu, bởi vì chúng làm
tăng sức cản mạch máu phổi và dẫn đến suy tim phải nặng hơn. Lưu lượng thất phải
có thể được cải thiện bằng cách sử dụng các thuốc tăng co bóp như dobutamine và
milrinone. Những tác thuốc này cũng sẽ dẫn đến giãn mạch phổi.
Các
can thiệp đặc hiệu khác nhằm giảm sức cản mạch máu phổi bao gồm sildenafil hít
hoặc prostacyclin tiêm tĩnh mạch, và oxit nitric hít. Hạ huyết áp trong giai đoạn
này nên được điều trị chủ yếu bằng thuốc vận mạch chẳng hạn như norepinephrine
hoặc vasopressin.
Sau
giai đoạn suy thất phải, suy thất trái sẽ chiếm ưu thế. Không truyền nhiều dịch,
đặc biệt nên tránh trong bối cảnh giãn
thất phải phải vì điều này sẽ làm căng quá mức tâm thất và làm tăng nguy cơ nhồi
máu cơ tim phải. Sự căng quá mức tâm thất phải cũng sẽ dịch chuyển vách liên thất
sang trái, làm tổn hại thêm đến cung lượng tim.
Vài
phút đến vài giờ sau biểu hiện ban đầu, chức năng thất phải thường được cải thiện,
suy thất trái sẽ xuất hiện nổi bật với phù phổi do
tim. Ở những bệnh nhân không được đặt nội khí quản, cần cân nhắc thông khí cơ học
không xâm lấn hoặc đặt nội khí quản. Suy tim trái điều trị tốt nhất bằng tiền tải,
sử dụng thuốc vận mạch trong trường hợp hạ huyết áp để duy trì áp lực tưới máu
mạch vành và các thuốc làm tăng co bóp(dobutamine hoặc milrinone) để tăng co
bóp thất trái. Sung huyết phổi nặng không đáp ứng với điều trị lợi tiểu có thể lấy
dịch thông qua lọc máu.
Đông
máu nội mạch lan tỏa biểu hiện ở hầu hết các trường hợp thuyên tắc ối. Đông máu
nội mạch lan tỏa có thể xuất hiện ngay sau trụy tim mạch hoặc
giai đoạn muộn của hội chứng. Chảy máu nặng có thể đòi hỏi điều trị đồng thời nội
khoa và phẫu thuật. Điều trị nội bao gồm truyền máu để duy trì số lượng tiểu cầu
trên 50.000 / mm3 và thời gian thromboplastin hoạt hóa từng phần và tỷ lệ bình
thường hóa quốc tế bình thường.
Trong
tình huống xuất huyết ồ ạt, truyền máu không nên chậm trễ và không chờ kết quả
xét nghiệm. Thay vào đó, hồi sức tích cực sớm với hồng cầu lắng, huyết tương
tươi đông lạnh, và tiểu cầu theo tỷ lệ 1: 1: 1 (hồi sức cầm máu dẫn đến cải thiện
kết quả).
Đờ tử
cung thường đi cùng với thuyên tắc ối nên được điều trị tích cực.Việc sử dụng
thuốc co hồi tử cung như oxytocin, dẫn xuất ergot và prostaglandin là thích hợp
khi được chỉ định. Trường hợp kháng trị có thể dùng gạc chèn hoặc đặt bóng
trong tử cung. Thắt động mạch tử cung hai bên, khâu B-Lynch, hoặc cắt tử cung
là biện pháp sau cùng . Ở những bệnh nhân sanh ngã âm đạo, kiểm tra kỹ cổ tử
cung và âm đạo để loại trừ vết rách như là nguyên nhân hoặc là yếu tố góp phần
gây chảy máu ở bệnh nhân đông máu nội mạch lan tỏa.
Sinh
em bé
Nếu
AFES xảy ra trong khi sinh, cần xác định sinh em bé ngay lập tức. Quyết định dựa
vào tùy từng trường hợp cụ thể, nhưng các yếu tố ủng hộ việc sinh khẩn cấp bao
gồm tim thai suy, tình trạng nguy kịch của mẹ diễn ra nhanh chóng, hoặc có thể
tạo điều kiện thuận lợi cho các nỗ lực hồi sức ở mẹ. Sinh đường âm đạo là hợp
lý nếu cổ tử cung giãn hoàn toàn và đầu thai nhi đã hạ xuống ít nhất +2/5. Nếu
không, sinh mổ khẩn cấp được chỉ định.
Tiên lượng
AFES
là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra 10% tử vong mẹ ở các nước phát
triển. Tỷ lệ tử vong ở mẹ cao và tiên lượng kém ở những người còn sống sót.
Tỷ lệ
tử vong mẹ được báo cáo từ 10 đến 90 phần trăm. Tuy nhiên, tỷ lệ thiếu chính
xác do thiếu sự đồng thuận về định nghĩa của AFES . Mặc dù các báo cáo cũ thường
đưa ra tỷ lệ lên đến 90 phần trăm, tỷ lệ báo cáo dựa vào dữ liệu mới dưới 50 phần
trăm, với tỷ lệ tử vong chung là khoảng 20 phần trăm.
Hạ
oxy máu thường nặng, gây ra khoảng 50 phần trăm ca tử vong xảy ra trong giờ đầu
tiên . Khoảng 85 phần trăm bệnh nhân bị AFES chết vì sốc tim hoặc ngừng tim
Những người sống sót thường có kết quả xấu, với 85% bị tổn thương thần kinh nghiêm trọng do thiếu oxy não, bệnh nhân có biểu hiện nhẹ thường có kết quả tốt hơn
Những người sống sót thường có kết quả xấu, với 85% bị tổn thương thần kinh nghiêm trọng do thiếu oxy não, bệnh nhân có biểu hiện nhẹ thường có kết quả tốt hơn
Kết
quả ở trẻ sơ sinh cũng kém. Tỷ lệ tử vong được ước tính là từ 20 đến 60 phần
trăm, và đến 50 phần trăm những trẻ sống sót không có tổn thương về thần kinh.
Kết quả ở trẻ sơ sinh được cải thiện nhờ việc sinh nhanh chóng.
Kết luận
Mặc
dù AFE đã được mô tả hơn một trăm năm qua, nhưng hiểu biết về sinh lý bệnh, chẩn
đoán, điều trị và quan trọng nhất là phòng ngừa cũng không hoàn toàn đầy đủ
Thuyên
tắc ối là một tình trạng hiếm gặp, nhưng thường gây tử vong. Tỷ
lệ tử vong mẹ và chu sinh dường như đã giảm trong những thập kỷ qua vì có những
tiến bộ trong lĩnh vực chăm sóc và hồi sức tích cực.
Chẩn đoán vẫn dựa vào lâm sàng và thường là chẩn đoán loại trừ vì hiện chưa có xét nghiệm đặc hiệu nào giúp chẩn đoán. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ và sinh em bé. Hỗ trợ hô hấp, huyết động với việc sử dụng hợp lý dịch, thuốc vận mạch, inotropes, và thuốc giãn mạch phổi. Khi có chỉ số nghi ngờ cao về lâm sàng, cần nhanh chóng tiến hành điều trị là thiết yếu.
Tỷ lệ tái phát của thuyên tắc ối không rõ nhưng có vẻ là thấp. Phần lớn tài liệu xuất bản liên quan đến thuyên tắc ối có chất lượng kém và có thể bao gồm một số đáng kể bệnh nhân ở trong tình trạng khác. Tiêu chuẩn chẩn đoán thống nhất cho các trường hợp thuyên tắc ối là cần thiết để có thể đẩy nhanh sự hiểu biết của chúng ta về tình trạng bệnh lý này
Chẩn đoán vẫn dựa vào lâm sàng và thường là chẩn đoán loại trừ vì hiện chưa có xét nghiệm đặc hiệu nào giúp chẩn đoán. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ và sinh em bé. Hỗ trợ hô hấp, huyết động với việc sử dụng hợp lý dịch, thuốc vận mạch, inotropes, và thuốc giãn mạch phổi. Khi có chỉ số nghi ngờ cao về lâm sàng, cần nhanh chóng tiến hành điều trị là thiết yếu.
Tỷ lệ tái phát của thuyên tắc ối không rõ nhưng có vẻ là thấp. Phần lớn tài liệu xuất bản liên quan đến thuyên tắc ối có chất lượng kém và có thể bao gồm một số đáng kể bệnh nhân ở trong tình trạng khác. Tiêu chuẩn chẩn đoán thống nhất cho các trường hợp thuyên tắc ối là cần thiết để có thể đẩy nhanh sự hiểu biết của chúng ta về tình trạng bệnh lý này
Tài liệu tham khảo
1. D.
Pacheco, MD; George Saade, MD; Gary D. V. Hankins, MD; Steven L. Clark, MD.
Amniotic fluid embolism: diagnosis and management. SMFM
Clinical Guidelines No. 9
2. Marie
R Baldisseri, MD, FCCM. Amniotic fluid embolism syndrome. Uptodate online
3.
Harper Juanillo E1 and Chambliss LR. Amniotic Fluid Embolism:
Clinical Challenges and Diagnostic Dilemmas. Journal of Pediatric and
Womens Healthcare. Published: 17 Sep, 2018
4.
Lisa E Moore, MD, FACOG. Amniotic fluid embolism. https://emedicine.medscape.com/article/253068
Bs Nguyễn Vỹ
Bài hay và bổ ích!
ReplyDelete